Ghi nhận tác ý muốn điều thân, rồi điều thân cho ngay ngắn.
Trong Kinh Pháp cú có 423 câu, câu đầu tiên là:

Ý dẫn đầu các pháp,
Ý chủ, ý tạo tác.

Phật ngôn

Ý là sự liễu tri, tâm là sự hay biết. Cái thân không biết gì hết, có cái tâm nó biết. Biết đang điều thân cho ngay ngắn là cái tâm nó biết.

Ngồi kiết già, bán già, hoặc xếp bằng chân trước chân sau, ngồi sao cũng được miễn sao thân tâm được thư giãn, nhẹ nhàng, duy trì chánh niệm trên đề mục được lâu là tốt.

Hãy thả lỏng cái đầu, đừng gồng cứng cái đầu. Thả lỏng hai cái vai, thả lỏng cái mình, thả lỏng hai cái chân. Không chau mày, không mím môi. Thả lỏng những cơ bắp trên mặt ra.

Mắt nhắm bình thường hoặc khép hờ càng tốt. Khép hờ nó ít buồn ngủ, hễ mở ra thì nó phóng mà nhắm khít lại một lát nó hay ngủ. Khép hờ! Đức Phật khép hờ.

Toàn thân buông lỏng, tâm thì quân bình, thư giãn, thoải mái. Thân và tâm lúc nào cũng mềm mại, nhu nhuyến, không gồng cứng.

Hãy chú tâm theo dõi hơi thở ở vùng bụng. Khi hít hơi vô, cơ hoành vòng ngực, vòng bụng nó phồng lên, nó có cảm giác rung chuyển của cái phồng. Hành giả có trí nhớ chánh niệm(3) – tỉnh giác, thấy rõ, biết rõ ‟phồng, phồng, phồng,…”.

Khi thở ra, cơ hoành vòng ngực, vòng bụng nó xẹp, nó cũng có cảm giác rung chuyển của cái xẹp. Hành giả có trí nhớ chánh niệm – tỉnh giác, thấy rõ, biết rõ là ‟xẹp, xẹp, xẹp,…”.

Niệm tục đế, niệm thầm để cột cái tâm lại. Khi nào cái tâm bớt suy nghĩ, bớt phóng, bắt đầu niệm chân đế là ghi nhận cái sự chuyển động của bụng phồng, bụng xẹp; cái cảm giác, cái chuyển động của bụng phồng, bụng xẹp.

Ai thuận để tâm lên mũi thì để tâm lên mũi. Ai thuận để tâm ở bụng thì để tâm ở bụng. Mũi là nhân, bụng là quả. Cái nào cũng tiến bộ hết. Nhưng cái nào một cái thôi, đừng có chạy lên chạy xuống, cái sát-na định nó yếu.

Hít vô ‟phồng, phồng, phồng,…”. Thở ra ‟xẹp, xẹp, xẹp,…”. Thở bình thường, tự nhiên. Đừng cố gắng thở mạnh, nó căng thẳng cái đầu.

Không nên ức chế cái tâm, mà cũng không nên gồng cứng ngắc cái thân. Thả lỏng ra hết. Chỉ cần giữ cái trí nhớ hay biết trong hiện tại. Thân ngồi đây, tâm hay biết cũng ở đây thì sự giác ngộ, giải thoát cũng ở đây. Giải thoát từng chặp, từng thời, từng khoảnh khắc, từng sát-na trong hiện tại, gọi là giải thoát tạm thời.

Thở nhẹ nhẹ,… chỉ cần thấy cái sự chuyển động nhúc nhích, nhúc nhích. Ghi nhận, để cái sự hay biết ngay vùng bụng. Biết cái gì? Biết cảm giác, biết cái sự rung chuyển nhè nhẹ chứ cũng không cần rõ lắm. Miễn sao có chỗ, có nơi để an trú, ghi nhận, hay biết.

Thiền là phải êm ái, nhẹ nhàng, không có lôi kéo, không có đè đẩy, không có yêu sách, không có muốn cho các pháp vận hành theo ý của mình. Nó sao nó vậy, nhìn các pháp như nó đang là.

Mắt nhắm. Âm thanh, tiếng động, ghi nhận, hay biết là ‟nghe, nghe,…”, là chúng ta đang niệm pháp, gọi là pháp quán niệm xứ.
Không nên đồng hóa với âm thanh, tiếng động, mà cũng không xua đuổi âm thanh, tiếng động.

Chỉ có đối tượng nghe với cái tâm ghi nhận, hay biết chứ không có ‟tôi nghe”, không có một cá nhân nào trong này hết.

Chỉ có tiến trình sinh hoạt của thân và tâm, danh và sắc. Nó sinh hoạt theo quy luật tự nhiên của nhân – quả.

Nghe chỉ là nghe thôi. Âm thanh chỉ là âm thanh thôi.
Rồi quay nhanh trở về đề mục chính là sự chuyển động của bụng phồng, bụng xẹp.

Nếu có phóng tâm hoặc tâm suy nghĩ chuyện này, chuyện khác, hãy có trí nhớ chánh niệm – tỉnh giác, thấy rõ, biết rõ ‟phóng tâm, phóng tâm, suy nghĩ, suy nghĩ,…”. Rồi quay nhanh trở về đề mục chính, là sự chuyển động của bụng phồng, bụng xẹp.

Hít vô ‟phồng, phồng, phồng,…”. Thở ra ‟xẹp, xẹp, xẹp,… ”. Thở bình thường. Đừng cố gắng thở mạnh, nó căng thẳng cái đầu.

Trong cơ thể ngứa ngáy, nhột nhạt, lâm châm, lích chích, khó chịu, bực bội,… cũng phải có trí nhớ chánh niệm – tỉnh giác, thấy rõ, biết rõ.
Chánh là đúng, niệm là biết.
Biết đúng lúc – không trước, không sau.
Biết mà không so sánh, không đánh giá, không phân tích. Tốt biết tốt mà không bám níu.
Xấu biết xấu mà không xua đuổi. Biết này là biết của chánh niệm.
Chánh niệm là biết sống trong hiện tại.
Biết cái gì? Thở vô, chuyển động ‟phồng, phồng,…”. Thở ra, chuyển động ‟xẹp, xẹp,… ”.
Chánh niệm là luôn luôn có trí nhớ biết mình. Biết mình ngay trong lúc hiện tại và bây giờ, bây giờ, bây giờ,… là người sống mãi mãi không có chết. Đời nay vui, đời sau vui, cả hai đời vui mà Đức Phật đã giảng trong kinh Trung Bộ.
Chánh niệm! Luôn luôn có trí nhớ chánh niệm. Chánh niệm là một cái trí nhớ ghi nhận, hay biết những gì đã và đang sanh khởi nổi bật ngay trong khoảnh khắc hiện tại. Đó là chánh niệm.

Chánh niệm là con đường bất tử
Phóng dật đưa đến diệt vong.
Người chuyên niệm người sống
Kẻ phóng dật cũng như chết.

Hít vô chuyển động ‟phồng”. Thở ra chuyển động ‟xẹp”.
Chúng ta tu một lúc nào đó, cái phồng xẹp nó thay hình, đổi dạng. Thay vào đó là cứng cứng, mềm mềm ở trong phồng xẹp là nguyên tố đất, trì trì quyến hút ở trong phồng xẹp là nguyên tố nước, nhiệt độ nóng lạnh ở trong phồng xẹp là nguyên tố lửa, cảm giác di chuyển ở trong phồng xẹp là nguyên tố gió. Bốn nguyên tố này là sắc pháp; sự ghi nhận, hay biết là danh; một cặp danh – sắc đã và đang đi Niết Bàn. Hành giả giác ngộ không ngoài danh và sắc.

Đi nhanh mau tới, đi chậm lâu tới, không đi ngồi đó ác ma nó tới nó đem mình đi. Chánh niệm – tỉnh giác là con trai, con gái của Phật. Si phóng dật là con trai, con gái của Ma Vương.

Cơn đau đến, ghi nhận hay biết. Nếu nhẹ quá, cho qua luôn, trở về đề mục chính. Cơn đau không bớt mà gia tăng thì lấy cái đau làm đề mục – cảnh trưởng duyên (cảnh nổi bật) như trong Vi Diệu Pháp đã dạy. Coi cho rõ coi đau ở đâu? Đau ngoài da hay đau trong thịt, đau trong gân hay đau trong xương hay đau trong tủy? Cơn đau di chuyển tới đâu, ghi nhận hay biết tới đó. Hãy ghi nhận, thấy rõ, biết rõ cường độ tăng giảm của cái đau, sự sanh-trụ-diệt của cái đau, sự thay đổi của cái đau mà không so sánh, không đánh giá, không xua đuổi. Đó là Thiền quán Vipassanā.

Mong muốn cho cái đau mau hết là ô nhiễm về tham. Xua đuổi cái đau là ô nhiễm về sân. Tránh né cái đau là thái độ không chân chánh. Mà thiền sinh thấy được sự sanh, sự diệt của cái đau, đó là Thiền quán Vipassanā – Minh Sát Niệm Xứ.

Chỉ có đối tượng đau với cái tâm ghi nhận hay biết chứ không có ‟tôi đau”. Tách rời cái ‟tôi”, ‟ta” ra. Có ‟tôi”, ‟ta” tức là có tà kiến. Không có một cá nhân nào trong này hết. Chỉ có tiến trình sinh hoạt của thân và tâm, danh và sắc, sinh hoạt theo quy luật tự nhiên của nhân quả. Đức Phật dạy: Hãy để cho thân đau mà tâm không đau, thân đau mà tâm không giãy giụa, không xua đuổi, không tiêu cực, chống đối là hành giả có thái độ đúng đắn và chân chánh trong lúc thiền tập.

Đau chân quá, muốn đổi chân được không? Được. Trước khi đổi chân, đổi tư thế thì phải có sự hiểu biết đúng đắn. Tư thế này khổ quá, đau quá, chịu không nổi. Thôi, đổi qua tư thế mới để đón nhận cái khổ nhẹ hơn, chứ không phải đổi qua tư thế mới để tìm sự an lạc. Đây là hành giả có thái độ đúng đắn và chân chánh trong lúc thiền tập.

Ghi nhận tác ý muốn đổi chân. Rồi theo dõi từng động tác của cái đổi chân. Đó là chánh niệm được liên tục, không bị gián đoạn.

Cái thân nó chuyển động, cái thân nó sinh hoạt như thế nào, thì cái tâm sở niệm nó ghi nhận như thế ấy. Đó là hành giả có chánh niệm – tỉnh giác sít sao trên đề mục.

Âm thanh, tiếng động, mùi vị,… sanh khởi mạnh ngay trong khoảnh khắc hiện tại thì chúng ta ghi nhận. Ghi nhận, hay biết xong rồi cũng phải trở về đề mục chính, là sự chuyển động của bụng phồng, bụng xẹp. Phải trở về đề mục chính, để tạo cho mình một cái sát-na định vững. Khi sát-na định vững thì Tuệ Minh Sát phát sanh. Tuệ Minh Sát phát sanh, nó bứng nhổ tận gốc rễ phiền não ngủ ngầm.

Đức Phật dạy: Này chư Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ, hãy tẩy sạch tham tùy miên, sân tùy miên, kiến mạn tùy miên (tùy miên tức là ngủ ngầm – tham ngủ ngầm, sân ngủ ngầm, tà kiến ngủ ngầm, ngã mạn ngủ ngầm). Này chư Tỳ kheo, hãy tẩy sạch tham tùy miên, sân tùy miên, kiến mạn tùy miên, nhổ tận gốc rễ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại, tức là chánh niệm, là biết sống trong hiện tại. Tất cả hãy quay về với hiện tại, tức là đã và đang duy trì chánh niệm một cách miên mật. Chánh niệm là biết sống trong hiện tại.

Nếu không thấy được cái bụng phồng, bụng xẹp thì để tay lên bụng. Hay là lấy hai ngón tay cái đụng vào nhau, ghi nhận là ‟biết đụng, biết đụng, biết đụng”. Thở vô chuyển động phồng ‟nhúc nhích, nhúc nhích”. Thở ra chuyển động xẹp ‟nhúc nhích, nhúc nhích”.

Đi đâu thì đi, rồi cũng phải trở về đề mục chính, là thở vô ‟chuyển động phồng”, thở ra ‟chuyển động xẹp” – tức là tâm luôn luôn ở trong thân. Tâm là sự hay biết. Biết cái gì? Gió vô chuyển động phồng, gió ra chuyển động xẹp. Gió vô chuyển động ‟phồng, phồng, phồng,…”. Gió ra chuyển động ‟xẹp, xẹp, xẹp,…”.

Hơi thở vô, hơi thở ra là phương tiện, phồng xẹp là phương tiện. Mượn những cái phương tiện này để thấy sự sinh hoạt của tứ đại (đất, nước, lửa, gió), nó đang sinh hoạt ở bên trong. Nó có cái sự chuyển động nhúc nhích, nhúc nhích; cứng cứng, mềm mềm; trì trì, quyến hút; cảm giác nhiệt độ nóng, lạnh, nó đang sinh hoạt ở bên trong. Đây là hành giả thấy được sự sanh – sự diệt của sắc pháp (tức là thân). Ghi nhận hay biết là danh (tức là tâm). Chúng ta hành thiền chính là để thấy sự thay đổi, sự sanh – sự diệt của thân và tâm (danh và sắc). Chuyển động của thân là sắc. Ghi nhận, hay biết là danh. Một cặp danh sắc đã và đang đi Niết Bàn.

Đức Phật dạy: Như Lai được nhiều cái lợi ích lớn, Như Lai được nhiều cái quả báu lớn, là nhờ Như Lai nương vào thân hành niệm. Lợi ích lớn là nương vào thân, thì đồng nghĩa với ba cái còn lại là niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp có luôn. Trong lúc sinh hoạt, cái nào nổi bật chúng ta ghi nhận cái đó, giống như lời Đức Phật dạy ở trong Vi Diệu Pháp: Này chư Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ, hãy chánh niệm ngay cảnh trưởng duyên. Cảnh trưởng duyên là cảnh nổi bật ngay trong khoảnh khắc hiện tại. Đất, nước, lửa, gió, cái nào nổi bật ghi nhận cái đó. Thân, thọ, tâm, pháp trong lúc sinh hoạt, cái nào nổi bật ghi nhận cái đó, cuối cùng rồi cũng trở về đề mục chính. Quả báu lớn là nương vào thân hành niệm, định – niệm vững, Tuệ Minh Sát dễ dàng phát sanh. Tuệ Minh Sát phát sanh nó bứng nhổ tận gốc rễ phiền não ngủ ngầm.
Trong lúc thiền tập, bất thiện pháp nó đến, đừng sợ. Năm pháp cái đến, Đức Phật dạy đừng sợ. Tham dục triền cái, sân độc triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo hối triền cái, hoài nghi triền cái; nó đến đừng sợ. Đức Phật dạy đừng sợ, nó là đề mục của Thiền Minh Sát, là đối tượng của tâm chánh niệm.
Đức Phật dạy: Này chư Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ, tham dục cái là giáo pháp, sân độc cái là giáo pháp, hôn trầm, thụy miên cái là giáo pháp, trạo hối cái là giáo pháp, hoài nghi cái là giáo pháp. Này chư Tỳ kheo, ai thấy được giáo pháp tức là thấy được Như Lai. Bất cứ một pháp cái nào đến, chúng ta phải chánh niệm.

Chánh niệm là gì? Là sự thấy rõ, biết rõ những gì đã và đang sanh khởi nổi bật ngay trong khoảnh khắc hiện tại.

Đức Phật dạy: Đối tượng ở đâu thì chánh niệm ở đó, chánh niệm ở đâu thì trí tuệ minh sát phát sanh ở đó, trí tuệ minh sát phát sanh ở đâu thì Đạo, Quả và Niết Bàn cũng xuất hiện nơi đó. Các pháp sanh ở đâu, diệt ở đó. Niết Bàn là đối tượng của tâm Đạo, tâm Quả siêu thế, mà chánh niệm – tỉnh giác là tâm hiệp thế, làm nền tảng cho tâm Đạo, tâm Quả siêu thế.

Ráng kham nhẫn, nhẫn nại với cái đau cho nó quen.
Chánh niệm – tỉnh giác thấy rõ, biết rõ trên cái đau.

Đức Phật dạy: Khi cận tử nghiệp đến, khắp thân người thịt giật gân thun, tay chân chuyển động vẫy vùng, ruột như dao cắt vô cùng đớn đau.

Ráng cố gắng kham nhẫn, nhẫn nại với cái đau.
Ráng cố gắng kham nhẫn, nhẫn nại với năm pháp cái. Năm pháp cái là pháp bất thiện. Đức Phật dạy ở trong Vi Diệu Pháp: Này chư Tỳ kheo, hãy lấy bất thiện trợ thiện bằng cảnh duyên. Bất thiện cũng là đề mục của Thiền Minh Sát, là đối tượng của tâm chánh niệm.

Thế nào là pháp quán niệm xứ? Nội tâm vị ấy có tham dục cái, vị ấy thấy rõ, biết rõ nội tâm có tham dục cái. Thấy rõ, biết rõ tức là chánh niệm – tỉnh giác. Nội tâm vị ấy không có tham dục cái, vị ấy thấy rõ, biết rõ nội tâm không có tham dục cái. Tham dục cái chưa sanh nay đã sanh, vị ấy thấy rõ, biết rõ. Tham dục cái đã sanh, đang được đoạn trừ, vị ấy thấy rõ, biết rõ. Tham dục cái đã đoạn trừ, tương lai không sanh khởi, vị ấy thấy rõ, biết rõ. Cái câu sau: ‟tham dục cái đã đoạn trừ, tương lai không sanh khởi, vị ấy thấy rõ, biết rõ”, là chúng ta đã bước vào dòng Nhập Lưu rồi. Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả, chúng ta đóng kín bốn cửa ác đạo. Bốn triền cái sau chúng ta cũng chánh niệm y như vậy nếu chúng sanh lên.

Thuộc lòng các thiệu thiền để gia tăng đức tin, khắc phục khó khăn, chướng ngại, nâng pháp hành mình lên trong lúc thiền tập.

Xin nguyện cho tôi đừng oan trái với tôi.
Xin nguyện cho tôi đừng oan trái với kẻ khác. Trong vòng luân hồi sanh tử vì vô minh không biết, nên lỡ xúc phạm đến các bậc Thánh Nhân, lỡ xúc phạm đến các bậc Thánh Tăng, lỡ xúc phạm đến các bậc Cao Tăng, hôm nay cho chúng con sám hối.

Con nguyện cúng dường cái thân này cho Thầy Tổ và Pháp Bảo. Một là cái thân này chết, hai là phiền não được diệt tận.

Hành giả hãy hoan hỷ với pháp hành, hành giả mới thắng lướt qua những cơn đau nhào lộn. Hành giả hãy hoan hỷ với pháp hành, hành giả mới thắng lướt qua những chướng ngại, khó khăn, thử thách.
Hành giả muốn thành tựu Đạo Quả giải thoát thì phải trả bằng một giá rất đắt trong quá trình tu tập.
Người dữ mặc người, con chớ dữ, gìn lòng giữ đạo, nhớ nghen con! Tu là chuyện có, họ nói không, Không nói có, mặc tình ai thêu dệt, nhẫn nhẫn hoài, nhẫn nhẫn mãi nghen con! Nhẫn không phải chỉ ba lần thôi, mà nhẫn mãi đến khi nào được giải thoát.

Hạnh tu như đất,
Ai rải hoa thơm lên đất, đất cũng làm thinh, Ai phóng uế lên đất, đất cũng làm thinh, Oan ức không cần biện bạch,
Muốn yên tu thì phải giả ngu, Dầu cho có mắt cũng như mù, Có tai như điếc đành câm lặng, Nhớ mãi trong đầu một chữ Tu.

Ta làm việc gì biết rõ việc ta đang làm, đây là chánh niệm; thêm tỉnh giác, nên làm hay không nên làm, hợp thời thì làm, phi thời không làm, đây là trí tuệ.
Ta nói việc gì biết rõ việc ta đang nói, đây là chánh niệm; thêm tỉnh giác, nên nói hay không nên nói, hợp thời thì nói, phi thời không nói, đây là trí tuệ.
Ta suy nghĩ việc gì biết rõ việc ta đang suy nghĩ, đây là chánh niệm; thêm tỉnh giác, nên suy nghĩ hay không nên suy nghĩ, hợp thời suy nghĩ, phi thời không suy nghĩ, đây là trí tuệ.
Nếu ta làm được như vậy, thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh, xuôi tay nhắm mắt, chánh niệm và trí tuệ đưa ta đến chỗ thanh tịnh hoàn toàn.

Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo!
Thân người chẳng còn tồn tại bao lâu đâu. Khi tâm thức lìa bỏ rồi thì nằm trên mặt đất như đống tro tàn, tìm sự lợi ích cũng chẳng có. Các pháp hữu vi thật không bền vững. Nó có tánh sanh diệt là thường. Vì nhân sanh rồi diệt, diệt rồi sanh nên thường hay có sự khổ não. Chỉ có Niết Bàn là pháp tịch diệt, dứt cả pháp hữu vi ấy được, mới có sự an vui tuyệt đối.

Thân người hiện tại đây giống như lá cây chín có màu vàng, là tay sai của diêm chúa, là sự chết sẽ đến tìm người. Người là nguồn cội của sự vô ngã. Lộ phí là việc lành của người cũng chẳng có. Người phải ráng cho ra bậc thông minh, đừng nên chịu tối mê nữa. Nếu làm được như thế thì sẽ dứt khỏi cần lao, nhất là tình dục, không còn phiền não, là nơi an vui tuyệt đối.

(*) Chú thích:

(1) Chánh niệm (sammā-sati) là luôn luôn có trí nhớ biết mình, sống không quên mình, ngay trong lúc hiện tại để thấy rõ, biết rõ sự sanh – sự diệt của ba đặc tướng vô thường – khổ não – vô ngã.
Đặc tính riêng của thân là tứ đại (đất, nước, lửa, gió). Đặc tính riêng của tâm là sự hay biết.
Đặc tính chung của thân và tâm (danh và sắc) là vô thường – khổ não – vô ngã.
Chánh niệm là trí nhớ biết mình ngay trong lúc bây giờ, bây giờ và bây giờ.
Chánh niệm là biết sống trong hiện tại. Chánh niệm là sức mạnh của hiện tại. Chánh niệm là chìa khóa mở cửa Niết Bàn. Chánh niệm vô cùng quan trọng.

Chánh niệm cần thiết giống như không khí lành để thở. Chánh niệm nhiều chừng nào tốt chừng nấy.
Trong việc thực hành, chánh niệm có thể được hiểu một cách đơn giản là: sự ghi nhận, cảm nhận, kinh nghiệm, hay biết, quán sát,… một cách thuần túy những gì đang sinh khởi nổi bật trên thân – tâm mình ngay trong khoảnh khắc hiện tại.

Như vậy, mọi hiện tượng đang xảy ra nổi bật trong thân và tâm đều là đề mục của Thiền Minh Sát, là đối tượng của tâm chánh niệm.